Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Sự tỉnh ngủ và ý thức phê phán trong kết nạp tri thức

Gần đây trong một số bài viết, trên một số diễn đàn, các khái niệm chủ nghĩa hậu thực dân (postcolonialism), nghiên cứu hậu thực dân (postcolonial studies) thường xuất hiện cùng với đề xuất áp dụng như là hướng nghiên cứu cần thiết. Tuy nhiên để có thể ứng dụng, cần coi xét chủ nghĩa hậu thực dân là gì, quan niệm và hệ thống lý thuyết của nó có hợp với Việt Nam hay không? Ra đời từ phương Tây trong những năm 60 của thế kỷ trước, chủ nghĩa hậu thực dân là thiên hướng nghiên cứu các nước thực dân địa cũ - được định danh là các "chủ thể bị câm lặng" với những vấn nạn về bình đẳng giới, về các xã hội từng lớp và dân tộc thiểu số - những vấn đề được coi là di sản thực dân. Khuynh hướng học thuật này nảy sinh từ các điều kiện kinh tế - chính trị - tầng lớp riêng, mà trước tiên là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (hậu kỳ), sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế đồ sộ, của văn hóa đại chúng và chủ nghĩa tiêu dùng. Cùng với đó, là sự sa sút quyền lực kinh tế, chính trị của các nước phương Tây khi các nước thuộc thế giới thứ ba đã liên tục giành được độc lập.

Phần nào đó có thể nói, chủ nghĩa hậu thực dân có nguồn gốc từ truyền thống nhân bản của phương Tây bắt đầu từ thời kỳ Khai sáng; đó là phản ứng về tri thức và mỹ học, là hệ quả của sự phình ra của chủ nghĩa tư bản. Nói tóm lại, chủ nghĩa hậu thực dân là sự thích ứng về mặt tri thức và thẩm mỹ của phương Tây trước các nguy cơ đến từ những nước mới độc lập và đe dọa vị trí tiên phong của nó trên trường quốc tế.

Trên thực tế, cách thức hình thành diễn ngôn hậu thực dân không khác biệt nhiều so với cách thức hình thành diễn ngôn của chủ nghĩa thực dân. Cả hai đều có mục đích là quảng bá cho tính chất "đàn anh" về kiến thức và văn hóa của phương Tây, từ đó hợp thức hóa sự thiết lập các tổ chức kinh tế, chính trị của các nước phương Tây tại các nước thuộc địa, hay hậu thực dân địa. Mà chúng ta đều biết, sự thiết lập này không bao giờ vì sự phát triển của các nước thực dân địa, hay cái gọi là nước hậu thực dân địa, mà luôn vì sự phát triển kinh tế - chính trị của chính "mẫu quốc". Ở các thời kỳ trước, diễn ngôn thực dân cô đặc hình ảnh người dân thuộc địa như là những kẻ thơ ngây, thuộc về thời tiền sử và kém phát triển, do đó cần sự trợ giúp của các nước thực dân. Bởi thế cái gọi là mĩ ý "văn minh hóa" người bản địa, ưng chuẩn diễn ngôn thực dân, bản tính là chiêu bài giấu giếm lợi ích kinh tế - chính trị. Chủ nghĩa hậu thực dân địa cũng có những diễn ngôn rưa rứa như vậy, bằng cách hậu thực dân hóa (postcolonizing) một loạt văn bản, hiện tượng, phong trào vốn diễn ra trong những thời khắc, không gian khác nhau ở các nước ngoài phương Tây, từ đó góp phần hợp lệ hóa sự tồn tại của các tập đoàn kinh tế xuyên nhà nước và chủ nghĩa tiêu dùng, cũng như duy trì vị trí "đàn anh", "dẫn đầu" của các nước thực dân cũ. Giống như chủ nghĩa thực dân vẫn xem các nước thuộc địa ở tầng nấc thấp hơn trong thang bậc phát triển, chủ nghĩa hậu thực dân giao hội vào điều được gọi là vấn nạn kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước ở ngoài phương Tây, như: bất đồng đẳng giới, sự phân biệt giữa các giai cấp, giữa các tộc người. Đó là cơ sở để những người theo chủ nghĩa hậu thực dân cho rằng, các nước thứ ba chưa phát triển đầy đủ về "dân chủ", về "cá nhân chủ nghĩa", "tự do", "quyền công dân" và về "quốc gia - dân tộc". Từ đó ra đời các vấn đề: bình đẳng giới, bình đẳng công dân, dân chủ, đương đại hóa hay muôn vàn khái niệm liên quan đến quốc gia - quốc gia mà không gì khác hơn là thay hợp thức hóa điều người ta cho rằng: các nước ngoài phương Tây cần sự can thiệp của các học giả, các tổ chức chính trị và kinh tế quốc tế để giải quyết những điều bị (được) cho là "vấn nạn" dân tộc, tộc người và công dân. Như vậy xét đến cùng, đó chính là động viên cho sự phụ thuộc trong các sản phẩm và thực hành kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước thứ ba vào phương Tây. Ở Việt Nam, có thể nhận mặt điều này qua hành vi tiêu thụ một cách tràn lan, thỉnh thoảng là mù quáng, các sản phẩm học thuật, kỹ thuật và các thứ hàng hóa đến từ phương Tây. Đó thật sự là hành vi tiêu thụ thiếu thận trọng, thiếu chọn lựa, thiếu phê phán.

Từ sự ra đời của nó, có thể nói chủ nghĩa hậu thực dân là trào lưu tri thức bị quy định bởi điều kiện hậu thực dân (postcoloniality) và quy luật giá trị thị trường vốn được phương Tây sùng bái. Coi tiêu thụ là thước đo để định giá giá trị tri thức, các lý thuyết gia phương Tây cụ để làm sao sản phẩm tri thức của họ đắt hàng. Và chủ nghĩa hậu thực dân, với sự tụ hợp vào những vấn đề dân tộc, công dân ở các nước thứ ba đã trở thành "lá bùa" bảo đảm cho tính chất có thể tiêu thụ của kiến thức. Thành ra, các nhà kinh tế, các nhà chính trị phương Tây chóng vánh tìm thấy trong các diễn ngôn hậu thực dân sự ủng hộ về mặt lý luận cho các chính sách bành trướng về kinh tế, chính trị, văn hóa của họ. Nói một cách chung nhất, chủ nghĩa hậu thực dân, thoạt nghe như một thuyết lí tỏ ra rất đạo đức, chăm lo cho thế giới thứ ba về đồng đẳng công dân và dân tộc, lắng tai ngôn ngữ của các thế giới dị biệt, các nhóm ngoại biên; nhưng thực chất nó vừa được sinh ra trong và vừa phục vụ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, như là một gắng khắc phục, duy trì giấc mơ về tính siêu hạng của kinh tế, chính trị, văn hóa phương Tây.

Với một số tác giả đang cổ vũ cho việc thu nạp và vận dụng chủ nghĩa hậu thực dân, nghiên cứu hậu thực dân để nghiên cứu một số vấn đề văn học, nhân học thì phân tách trên đây có thể là điều khó chấp nhận. Song, không thể phủ nhận một sự thực đã và đang tồn tại trong nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là: trong khi các học giả phương Tây luôn ý thức về "tính siêu cường", vai trò "đàn anh, đàn chị" trong quan hệ với các nước thứ ba, thì lại có một số tác giả ở Việt Nam lại quen với vị trí "nhược tiểu" của mình. Với họ, cái gì của ta cũng thấp kém, cái gì của Tây cũng là tiến bộ, là đi trước, dẫn đến sự hấp thụ thiếu phê phán. Thiếu phê phán trong khi hấp thụ tri thức đến từ phương Tây có thể để lại hậu quả khôn lường. Bởi, như chủ nghĩa hậu thực dân chả hạn, nó cổ súy cho vị trí siêu cường của kiến thức phương Tây, hợp thức hóa vai trò "đàn anh, đàn chị", có thể mở ra "đột phá khẩu" cho sự can thiệp của phương Tây đối với Việt Nam trong nhiều vấn đề khác nhau.

Cũng cần xem xét, phân tích từ một bình diện khác là chủ nghĩa hậu thực dân không tương thích với thực tế Việt Nam. Từ nguồn cội của nó, chủ nghĩa hậu thực dân chính yếu được khái quát từ thực tế kinh tế, chính trị, văn hóa của Ấn Độ đương đại - một thực dân địa cũ của thực dân Anh. Chúng ta có thể nhận thấy rất rõ Ấn Độ thời thực dân địa không có những tính chất gần gụi với Việt Nam thời thuộc địa. Quan trọng hơn, sau khi giành được độc lập, nếu Ấn Độ đã phải sang thời "hậu thuộc địa" thì Việt Nam lại không qua thời kỳ này. Thuộc tính cơ bản của một chế độ chính trị - tầng lớp mới (trong định hướng phát triển, khẳng định hệ giá trị và cách thức tổ chức từng lớp, cùng vai trò là chủ thể từng lớp của con người,...) Đã được xác lập từ khi Việt Nam chưa giành được độc lập. Và sau khi giành được độc lập, dù còn một số "mảnh vỡ" của thời thuộc địa cần khắc phục, thì Việt Nam đã phát triển trên con đường hoàn toàn mới. Do đó, chủ nghĩa hậu thực dân không cân xứng với tình cảnh riêng của Việt Nam, dù là một thực dân địa cũ. Nhưng, một số nhà nghiên cứu (cả Việt Nam và nước ngoài) lại sử dụng "lăng kính" của chủ nghĩa hậu thực dân soi chiếu thực tại Việt Nam để "phát hiện" ra ối vấn nạn từng lớp, chính trị và văn hóa rưa rứa như Ấn Độ! Và đáng tiếc là các vấn nạn này lại trùng khớp với quan niệm, định nghĩa về các nước thứ ba trong học thuật phương Tây hơn là khớp với thực tại, đặc điểm, truyền thống Việt Nam. Thêm nữa, khi đề cao ý kiến của các nhà lý luận chủ nghĩa hậu thực dân và một số tác giả nước ngoài dùng lý thuyết này để nghiên cứu Việt Nam, chừng như họ đã quên rằng, các tác giả này đều làm việc tại một đơn vị học thuật thuộc một chính thể nhất định. Dù khách quan thì phương pháp và nội dung nghiên cứu của họ vẫn chịu sự chi phối của chế độ xã hội mà họ là thành viên.

Thiển nghĩ, trong điều kiện của Việt Nam, việc tiếp nhận các lý thuyết khoa học từ phương Tây là điều cấp thiết, nhưng từ tính lịch sử - cụ thể của các vấn đề ở Việt Nam mà sự thu nhận luôn cần sự tỉnh táo và luôn đi kèm tinh thần phê phán, như với chủ nghĩa hậu thực dân chả hạn. Nói cách khác, trước khi hấp thu cần xác định xem lý thuyết ấy có thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh và sự phát triển của Việt Nam hay không. Và cần để ý, phải dựa trên tinh thần, sự tự tín, bản lĩnh dân tộc để không bị chi phối bởi tâm lý chạy theo phương Tây về tri thức và vật chất. Dù thế nào thì không phải là ngẫu nhiên, nhân tố dân tộc lại trở nên một trong ba nguyên tắc chỉ đạo của Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 (Dân tộc - Khoa học - Đại chúng). Trong bối cảnh phức tạp của những mối can dự hiện, chúng ta hội nhập, học hỏi từ nhân loại nhưng không được đánh mất mình. Ngay cả khi đối diện và thích nghi với vấn đề toàn cầu hóa về tri thức, thì ý thức dân tộc vẫn là một trong những nguyên tố cơ bản để Việt Nam phát triển bằng chính trí óc và khả năng của mình.

PHẠM CHI


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét